KỶ NIỆM 80 NĂM NGÀY THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM (22/12/1944 - 22/12/2024) VÀ 35 NĂM NGÀY HỘI QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN (22/12/1989 - 22/12/2024)

Ngày đăng: 25-01-2025

 

I. QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM - 80 NĂM XÂY DỰNG, CHIẾN  ĐẤU, CHIẾN THẮNG VÀ TRƯỞNG THÀNH  

1. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội  nhân dân Việt Nam ra đời, đánh thắng hai trận đầu, cùng Nhân dân tiến hành  Tổng khởi nghĩa giành chính quyền (1944 - 1945) 

Ngay từ khi ra đời (3/2/1930), trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng ta đã  khẳng định con đường đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc là dùng bạo  lực cách mạng để giành chính quyền và yêu cầu phải “Tổ chức ra quân đội công  nông”1 để làm nòng cốt cho toàn dân tiến hành đấu tranh cách mạng. Luận cương  chính trị của Đảng (tháng 10/1930) xác định nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản  dân quyền, trong đó chỉ rõ phải: “Lập quân đội công nông”2.  

Trong phong trào cách mạng 1930 - 1931, đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh, từ lực lượng khởi nghĩa của công nông, Đội tự vệ công nông (Tự vệ Đỏ) đã ra đời. Đó  là tiền đề đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam. Tiếp theo đó, hàng  loạt tổ chức vũ trang lần lượt được thành lập như: Đội du kích Bắc Sơn (1940), các  đội du kích ở Nam Kỳ (1940), Cứu quốc quân (1941)…  

Ngày 22/12/1944, tại khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng  Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng (nay là xóm Nà Sang, xã Tam Kim,  huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập theo Chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh. Trong Chỉ thị, Người ghi rõ: “Tên ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN  TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội  tuyên truyền”3; “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân đàn anh,  mong cho chóng có những đội đàn em khác. Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ,  nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi  suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”4. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được  Trung ương Đảng và Lãnh tụ Hồ Chí Minh ủy nhiệm tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy,  tuyên bố thành lập Đội, gồm 34 người, biên chế thành 3 tiểu đội do đồng chí Hoàng Sâm làm Đội trưởng, đồng chí Xích Thắng làm Chính trị viên, có chi bộ Đảng lãnh  đạo. Ngày 22/12/1944 được lấy làm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. 

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 4.  Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Sđd, tr. 95. 

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 356. 

 

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 357.

Ngay sau ngày thành lập, 17 giờ ngày 25/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền  giải phóng quân đã mưu trí, táo bạo, bất ngờ đột nhập vào đồn Phai Khắt và 07 giờ sáng hôm sau (26/12) lại đột nhập đồn Nà Ngần (đều đóng tại châu Nguyên Bình, tỉnh  Cao Bằng), tiêu diệt hai tên đồn trưởng, bắt sống toàn bộ binh lính địch, thu vũ khí,  quân trang, quân dụng. Chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần mở đầu cho truyền thống  quyết chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam. 

Tháng 4/1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ của Đảng đã quyết định  hợp nhất các tổ chức vũ trang cách mạng trên cả nước thành Việt Nam giải phóng  quân. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam giải phóng quân đã cùng  lực lượng vũ trang các địa phương và Nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa giành  chính quyền trên toàn quốc. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công,  Việt Nam giải phóng quân được đổi tên thành Vệ quốc đoàn, rồi Quân đội quốc gia  Việt Nam (1946), từ năm 1950 được gọi là Quân đội nhân dân Việt Nam.  

2. Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân  Pháp xâm lược (1945 - 1954) 

Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ hai, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực  lượng vũ trang phát triển mạnh mẽ, cùng Nhân dân ta nhất tề đứng lên, quyết chiến  đấu với quân xâm lược. Cuối năm 1946, theo quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước chia thành 12 chiến khu. Lúc này, ở Nam Bộ vẫn tổ chức các chi đội Vệ quốc  đoàn, ở Bắc Bộ và Trung Bộ có 30 trung đoàn và một số tiểu đoàn thuộc các chiến  khu; hệ thống tổ chức đảng trong Quân đội được thành lập từ Trung ương Quân ủy  đến chi bộ.  

Đêm 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Trong những ngày đầu toàn  quốc kháng chiến, quân và dân ta đã đánh hàng trăm trận, loại khỏi vòng chiến đấu  hàng nghìn tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Mùa xuân năm  1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ lên Việt Bắc, nơi đây  trở thành trung tâm chỉ đạo kháng chiến của cả nước. 

Thu Đông năm 1947, thực dân Pháp huy động hơn một vạn quân tinh nhuệ có  máy bay, tàu chiến hỗ trợ, bất ngờ tiến công lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu  não kháng chiến và bộ đội chủ lực của ta. Sau hơn hai tháng mở chiến dịch phản  công (7/10 - 20/12/1947), ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 7.000 tên địch. Đây là  chiến dịch phản công quy mô lớn đầu tiên giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của  quân và dân ta; đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn và làm phá sản chiến lược “đánh  nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp; bảo toàn và phát triển bộ đội chủ lực, bảo  vệ cơ quan đầu não và căn cứ địa của cả nước. 

Sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947, Quân đội ta đã có bước trưởng thành, song  chưa có khả năng mở những chiến dịch lớn. Để đánh bại âm mưu bình định của địch,  ta chủ trương phát động chiến tranh du kích rộng khắp và thực hiện “đại đội độc lập,  tiểu đoàn tập trung”, vừa đẩy mạnh chiến tranh du kích vừa học tập tác chiến tập  trung vận động chiến. Các tiểu đoàn tập trung được củng cố xây dựng và từng bước  tiến lên đánh những trận phục kích, tập kích lớn hơn. Từ đầu năm 1948 đến giữa  năm 1950, bộ đội ta liên tiếp mở trên 20 chiến dịch nhỏ trên các chiến trường. Mức  độ tập trung cho mỗi chiến dịch từ 3 đến 5 tiểu đoàn, sau nâng dần lên 2 đến 3 trung  đoàn, có chiến dịch sử dụng cả sơn pháo và trọng liên. Trong nhiều trận đánh, quân  ta đã tiêu diệt từng đại đội đến tiểu đoàn địch ở ngoài công sự và tiêu diệt cứ điểm  có trên dưới một đại đội địch đóng giữ.  

Từ giữa năm 1949, Bộ Tổng Tư lệnh chủ trương rút các đại đội độc lập về xây  dựng các trung đoàn, đại đoàn chủ lực. Ngày 28/8/1949, Đại đoàn 308 ra đời; ngày  10/3/1950, Đại đoàn 304 được thành lập. Công tác huấn luyện được đẩy mạnh. Qua các  cuộc vận động “luyện quân lập công”, “rèn cán chỉnh quân” trong các năm 1948, 1949  và đầu năm 1950, lực lượng vũ trang ta không ngừng phát triển và ngày càng lớn mạnh.  

Tháng 6/1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới, chủ động  tấn công Pháp. Sau gần một tháng (16/9 - 14/10/1950), ta loại khỏi vòng chiến đấu  hơn 8.000 tên địch, giải phóng khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng  Sơn), căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng và củng cố, phá vỡ thế bao vây, khai thông  liên lạc với Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, kết nối cách mạng nước ta  với cách mạng thế giới. Chiến thắng Biên giới góp phần quan trọng làm thay đổi cục  diện chiến tranh: Ta bước sang giai đoạn chiến lược phản công và tiến công, quân  Pháp chuyển dần sang chiến lược phòng ngự; đồng thời đánh dấu bước phát triển  nhảy vọt về nghệ thuật chiến dịch và sự trưởng thành lớn mạnh của Quân đội ta. 

Sau chiến dịch Biên giới, các đại đoàn chủ lực tiếp tục được thành lập: Đại  đoàn 312 (12/1950), Đại đoàn 320 (1/1951), Đại đoàn công pháo 351 (3/1951), Đại  đoàn 316 (5/1951). Trong vòng 6 tháng (12/1950 - 6/1951), ta đã liên tiếp mở ba  chiến dịch mang tên: Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung. Đây là  những chiến dịch quy mô lớn đầu tiên đánh vào phòng tuyến kiên cố của địch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Ta đã diệt hơn một vạn tên địch, trong đó gần một  nửa là quân cơ động. 

Tháng 11/1951, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hòa Bình; vừa tập trung  chủ lực trên mặt trận chính Hoà Bình, vừa đưa một bộ phận chủ lực vào hoạt động  trong vùng địch hậu đồng bằng Bắc Bộ, đẩy mạnh chiến tranh du kích trong vùng  địch tạm chiếm. Chiến dịch diễn ra từ ngày 10/12/1951 đến ngày 25/2/1952; quân  và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 tên địch ở mặt trận Hòa Bình và  hơn 15.000 tên địch ở mặt trận địch hậu. Trong chiến dịch này, bộ đội ta có bước tiến bộ mới về trình độ chiến thuật, kỹ thuật, về khả năng chiến đấu liên tục dài ngày,  về sự phối hợp tác chiến giữa ba thứ quân. 

Đầu tháng 9/1952, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Tây Bắc. Sau gần hai  tháng chiến đấu (14/10 - 10/12/1952), ta đã tiêu diệt và bắt hơn 6.000 tên địch, giải  phóng một vùng rộng lớn ở địa bàn chiến lược quan trọng, nối thông vùng giải phóng  Tây Bắc với căn cứ địa Việt Bắc và Thượng Lào, giữ vững thế chủ động tiến công,  làm thất bại âm mưu mở rộng chiếm đóng của địch.  

Ngày 5/12/1952, tại Bình - Trị - Thiên, Đại đoàn 325 được thành lập, góp phần  tăng thêm sức mạnh chiến đấu của “các quả đấm chủ lực cách mạng”. Tính đến thời  điểm này, đội quân chủ lực trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh đã có 6 đại đoàn bộ binh  (308, 304, 312, 320, 316, 325) và 1 đại đoàn công binh, pháo binh (351). 

Trước những thay đổi cục diện chiến tranh ở Đông Dương, trên cơ sở đánh giá  đúng tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch, tháng 9/1953, Bộ Chính trị quyết  định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954. Thực hiện chủ trương  đó, Bộ Tổng Tư lệnh ra lệnh cho các đơn vị chủ lực phối hợp mở đợt tiến công mạnh  mẽ trên các chiến trường. Ta đã hình thành năm đòn tiến công chiến lược tại Lai  Châu, Trung Lào, Hạ Lào - Đông Bắc Campuchia, Tây Nguyên và Thượng Lào, tiêu  diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, buộc chúng phải  căng ra đối phó ở khắp nơi. 

Sau khi thực dân Pháp đổ quân đánh chiếm Điện Biên Phủ, trước thời cơ  thuận lợi, ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị họp quyết định mở chiến dịch  Điện Biên Phủ. Sau 56 ngày đêm (13/3 - 7/5/1954) liên tục chiến đấu, quân và  dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, loại khỏi vòng chiến  đấu 16.200 tên địch, bắn rơi và phá huỷ 62 máy bay; thu toàn bộ vũ khí, kho tàng,  cơ sở vật chất kỹ thuật của địch ở Điện Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ giáng  một đòn quyết định vào ý chí xâm lược, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp  định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Chiến dịch Điện Biên Phủ là  một điển hình xuất sắc, là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng  chiến chống Pháp; đồng thời là minh chứng cho sự phát triển vượt bậc của Quân  đội ta sau 10 năm xây dựng, chiến đấu và chiến thắng vẻ vang (1944 - 1954). 

3. Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu  nước (1954 - 1975) 

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ mở ra  một giai đoạn phát triển mới của cách mạng Việt Nam. Miền Bắc hoàn toàn giải  phóng và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam tiếp tục cuộc  cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè  lũ tay sai. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn  mới, tháng 3/1957, Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (mở rộng) ra Nghị quyết về vấn đề xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, Nghị quyết chỉ rõ: “Phương châm xây  dựng quân đội của chúng ta là tích cực xây dựng một quân đội nhân dân hùng  mạnh tiến dần từng bước đến chính quy hoá và hiện đại hóa5.  

Đến năm 1960, Quân đội ta đã có bước trưởng thành mới, từ lực lượng chủ yếu  là bộ binh với tổ chức chưa thật thống nhất, vũ khí, trang bị còn thiếu thốn đã trở thành Quân đội chính quy, ngày càng hiện đại, gồm các lực lượng: Lục quân, Hải  quân, Phòng không - Không quân. Đây là bước phát triển rất quan trọng, tạo nền  móng cho xây dựng Quân đội tiến tới chính quy, hiện đại, sẵn sàng đáp ứng nhiệm  vụ mới của cách mạng. 

Ở miền Bắc, Quân đội đã tích cực tham gia công tác tiếp quản các thành phố,  thị xã và các vùng do quân Pháp chiếm đóng trước đây. Thực hiện tốt nhiệm vụ quân  quản, phối hợp với các lực lượng công an nhanh chóng thiết lập trật tự, trị an, bảo  vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, đấu tranh chống địch bắt người, cướp của, phá  hoại tài sản công cộng. 

Ở miền Nam, trong những năm 1954 - 1960, Mỹ - Diệm thực hiện chính sách  khủng bố tàn bạo, gây ra những tổn thất nặng nề cho cách mạng miền Nam. Trước  tình hình đó, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II (1/1959)  nêu lên hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam và vạch rõ con đường cơ  bản của cách mạng miền Nam là sử dụng bạo lực cách mạng. Chấp hành nghị quyết  của Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng đã quyết định đẩy mạnh hơn nữa công  cuộc xây dựng Quân đội. Việc chuẩn bị cho bộ đội ta vào miền Nam chiến đấu cũng  được xúc tiến. Theo đó, Sư đoàn 338 bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc đã được tập  trung huấn luyện trước khi lên đường vào Nam chiến đấu. Ngày 19/5/1959, Đoàn  559 được thành lập với nhiệm vụ mở đường dọc dãy Trường Sơn bảo đảm cho lực  lượng ta vào Nam chiến đấu và vận chuyển lương thực, súng đạn từ miền Bắc vào  miền Nam. Tiếp đó, Đoàn 759 cũng được thành lập với nhiệm vụ vận chuyển, tiếp  tế từ miền Bắc vào miền Nam theo đường biển. 

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 đã mở đường cho cách mạng miền Nam đi đến  thắng lợi. Để đẩy mạnh cao trào cách mạng của Nhân dân, ngày 20/12/1960, Mặt  trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Ngày 15/02/1961, Quân Giải  phóng miền Nam Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất các lực lượng vũ  trang nhân dân ở miền Nam; đây là bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam trực  tiếp hoạt động trên chiến trường miền Nam. 

Từ năm 1961, đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Được  cố vấn Mỹ chỉ huy và dựa vào hỏa lực Mỹ chi viện, ngụy quân Sài Gòn liên tiếp mở các cuộc hành quân đánh phá vùng giải phóng, gom dân lập “ấp chiến lược”. Quân  và dân ta đã liên tục chiến đấu, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng. Trong đó,  tiêu biểu là chiến thắng Ấp Bắc (01/1963) mở đầu cho sự thất bại của chiến thuật  “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của quân ngụy Sài Gòn; đồng thời mở ra phong trào  “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” sôi nổi khắp miền Nam.  

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 18, Sđd, tr. 287.

Ngày 05/8/1964, sau khi dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”, vu cáo Hải quân nhân  dân Việt Nam cố ý tiến công tàu khu trục Mỹ ở vùng biển quốc tế nhằm đánh lừa dư  luận, chính quyền Mỹ sử dụng không quân bất ngờ mở cuộc tiến công mang tên “Mũi  tên xuyên”, đánh phá vào hầu hết các căn cứ của hải quân ta trên suốt dải ven biển  miền Bắc. Nhờ chuẩn bị từ trước, các đơn vị hải quân, phòng không, dân quân tự vệ đã kịp thời phát hiện, mưu trí, dũng cảm chiến đấu, bắn rơi 8 máy bay, bắn bị thương  2 chiếc khác, bắt 1 phi công. Trận đầu đánh thắng không quân Mỹ đã cổ vũ quyết tâm  đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của quân dân cả nước.  

Trên cơ sở những thắng lợi trong năm 1963 và đầu năm 1964, tháng 10/1964,  Quân ủy Trung ương chỉ thị cho các lực lượng vũ trang miền Nam mở đợt hoạt động  Đông Xuân 1964 - 1965, tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân chủ lực ngụy, mở rộng vùng giải phóng. Sau các chiến dịch Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài của ta giành  thắng lợi, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ hoàn toàn bị phá sản.  

Từ giữa năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân chiến đấu của Mỹ và đồng minh cùng khối lượng lớn phương tiện chiến  tranh vào miền Nam Việt Nam6, đồng thời củng cố và tăng cường quân ngụy. Toàn bộ mục tiêu chiến lược của đế quốc Mỹ trong giai đoạn này là “tìm và diệt” chủ lực Quân  Giải phóng và cơ quan chỉ đạo cách mạng miền Nam, “bình định” miền Nam, uy hiếp  tinh thần kháng chiến của nhân dân Việt Nam, buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải ngồi vào bàn đàm phán theo những điều kiện áp đặt của Mỹ. 

Trước tình hình đó, từ tháng 9 đến tháng 12/1965, Bộ Quốc phòng quyết định  thành lập tại chiến trường miền Nam 5 sư đoàn bộ binh (9, 3, 2, 5, 1) và một đơn vị pháo binh tương đương cấp sư đoàn mang phiên hiệu Đoàn pháo binh 69. Vừa xây  dựng, vừa chiến đấu, bộ đội ta trên các chiến trường miền Nam đã tổ chức các trận  tiến công, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân quy mô lớn của Mỹ - ngụy, mở ra phong  trào “tìm Mỹ mà đánh”, “tìm ngụy mà diệt”. 

Mùa khô 1965 - 1966, đế quốc Mỹ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất  trên chiến trường miền Nam. Qua nửa năm chiến đấu gian khổ, quyết liệt, quân và  dân miền Nam đã đánh bại cuộc phản công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng  chục nghìn tên địch. Tháng 10/1966, đế quốc Mỹ quyết định mở cuộc phản công  chiến lược lần thứ hai nhằm tiêu diệt chủ lực và cơ quan đầu não của cách mạng  miền Nam. Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân phát triển cao, lực lượng vũ trang  tại chỗ của ta đã trụ bám trận địa, tiến công rộng khắp, tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực Quân Giải phóng mở các cuộc tiến công, gây cho địch nhiều thiệt hại về sinh  lực và phương tiện chiến tranh, buộc quân Mỹ phải chấm dứt cuộc phản công chiến  lược lần thứ hai mùa khô 1966 - 1967.  

Số quân Mỹ được đưa vào miền Nam Việt Nam: tháng 4/1965: 18.000 quân; tháng 7/1965: 81.000 quân; tháng  12/1965: 181.000 quân; tháng 12/1966: 376.000 quân; tháng 12/1967: 480.000 quân; tháng 4/1968: 543.000 quân  (Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng  lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 312). 

Sau những thắng lợi quan trọng của cách mạng miền Nam, tháng 01/1968, Hội  nghị Trung ương lần thứ 14 thông qua Nghị quyết của Bộ Chính trị (12/1967), quyết  định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Chỉ trong thời gian  ngắn, quân và dân ta đã tiến công vào hàng loạt mục tiêu nằm sâu trong các đô thị trên toàn miền Nam, gây cho địch thiệt hại rất nặng nề, làm đảo lộn thế trận chiến  lược của đế quốc Mỹ. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân  1968 đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, làm phá  sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, rút dần  quân về nước, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Paris.  

Với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, đế quốc Mỹ không cam tâm chịu thất bại,  từ năm 1969, chúng chuyển sang thi hành “Học thuyết Níchxơn” và chiến lược “Việt  Nam hóa chiến tranh”. Trong những năm 1969 - 1972, đế quốc Mỹ sử dụng tối đa  về sức mạnh quân sự, kết hợp với những thủ đoạn chính trị và ngoại giao hết sức  xảo quyệt, hòng cô lập và bóp nghẹt cuộc kháng chiến của Nhân dân ta. Trước tình  hình đó, quân và dân ta đã phối hợp chặt chẽ với cuộc chiến đấu của nhân dân Lào  và nhân dân Campuchia anh em, giành được những thắng lợi to lớn, tiêu biểu là  chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, chiến dịch Đông Bắc Campuchia; đồng thời mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam bằng các chiến dịch tiến  công hiệp đồng binh chủng ở Trị - Thiên, Bắc Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ,  các chiến dịch tiến công tổng hợp ở đồng bằng sông Cửu Long, Trung Bộ.  

Trước nguy cơ thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, ngày  06/4/1972, đế quốc Mỹ huy động một lực lượng lớn không quân và hải quân mở cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc lần thứ hai (chiến dịch Linebacker I) với quy  mô lớn, ác liệt hơn lần trước. Với tinh thần dũng cảm và cách đánh mưu trí, sáng  tạo, qua 7 tháng chiến đấu quyết liệt, quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 654 máy bay,  bắn chìm và bắn cháy 125 tàu chiến Mỹ.  

Trước những thất bại nặng nề, đêm 18/12/1972, đế quốc Mỹ liều lĩnh mở cuộc  tập kích đường không chiến lược quy mô lớn nhất mang tên “Chiến dịch Linebacker II” đánh phá miền Bắc, tập trung ồ ạt vào Hà Nội, Hải Phòng. Một lần nữa quân và  dân miền Bắc đã anh dũng chiến đấu, đánh bại cuộc tập kích chiến lược của địch;  bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 chiếc B-52, 5 chiếc F-111. Bị tổn thất lớn và  không đạt mục đích, đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ bắc vĩ tuyến 20 trở ra và nối lại cuộc đàm phán ở Paris. Dư luận thế giới gọi đây là  trận “Điện Biên Phủ trên không”. 

Những thắng lợi to lớn của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam, cùng với  Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp  định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973), rút quân  về nước. Tuy nhiên, ngụy quyền Sài Gòn ngang nhiên vi phạm Hiệp định, ráo riết thực  hiện kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, đẩy mạnh lấn chiếm vùng giải phóng của ta.  

Để sớm kết thúc chiến tranh, theo đề nghị của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc  phòng, từ cuối năm 1973 đến đầu năm 1975, Bộ Chính trị đã phê chuẩn việc thành  lập các quân đoàn: Quân đoàn 1 (10/1973), Quân đoàn 2 (5/1974), Quân đoàn 4  (7/1974), Quân đoàn 3 (3/1975) và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn, 2/1975).  Việc thành lập các quân đoàn chủ lực đã đánh dấu bước phát triển mới của Quân đội  nhân dân Việt Nam.  

Trong hai năm 1973 - 1974, quân và dân ta liên tiếp giành được thắng lợi quan  trọng, làm cho cục diện chiến trường tiếp tục thay đổi có lợi cho ta. Hội nghị Bộ Chính  trị tháng 10/1974 và đầu năm 1975 đã chỉ rõ sự xuất hiện thời cơ lịch sử và nêu quyết  tâm chiến lược giải phóng miền Nam. Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, ngày  04/3/1975, bộ đội ta mở chiến dịch Tây Nguyên, mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi  dậy Xuân 1975. Sau một số trận đánh tạo thế và nghi binh chiến dịch, ngày 10 và  11/3/1975, quân ta tiến công giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Tiếp đó, giải phóng  hoàn toàn tỉnh Kon Tum, Gia Lai và toàn bộ Tây Nguyên. 

Sau khi chiến dịch Tây Nguyên nổ ra được một ngày, ngày 05/3/1975, quân ta  mở chiến dịch Trị Thiên - Huế, giải phóng tỉnh Quảng Trị, thành phố Huế và tỉnh  Thừa Thiên. Phát huy thắng lợi, từ ngày 26/3 - 29/3/1975, quân ta mở chiến dịch Đà  Nẵng, giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà và thị xã Hội An. Phối hợp  với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương, bộ đội ta tiến công giải phóng các  tỉnh Bình Định, Phú Yên (01/4), Khánh Hòa (03/4)… 

Từ những thắng lợi đó, Bộ Chính trị quyết định giải phóng Sài Gòn và toàn  miền Nam. Chiến dịch giải phóng Sài Gòn được lấy tên là “Chiến dịch Hồ Chí  Minh”. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, ngày  26/4, quân ta hình thành thế bao vây Sài Gòn từ 5 hướng, do các Quân đoàn 1, 2, 3,  4, Đoàn 232 và Sư đoàn 8 (Quân khu 8) đảm nhiệm. 17 giờ ngày 26/4, chiến dịch  bắt đầu. Sau nhiều trận chiến đấu quyết liệt đánh chiếm vòng ngoài thắng lợi, sáng  30/4, quân ta tổng công kích vào nội thành Sài Gòn, nhanh chóng thọc sâu đánh  chiếm các mục tiêu then chốt; 10 giờ 45 phút, lực lượng thọc sâu của Quân đoàn 2  đánh chiếm Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ nội các chính quyền Sài Gòn, buộc tổng  thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không điều kiện. 11 giờ 30 phút cùng  ngày, lá cờ của Quân Giải phóng được cắm trên nóc Dinh Độc Lập, đánh dấu sự toàn thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. 

Song song với các cuộc tiến công trên bộ giành thắng lợi, thực hiện chỉ đạo của  Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, Quân chủng Hải quân đã khẩn trương  chuẩn bị lực lượng, tranh thủ thời cơ, mưu trí, táo bạo, bất ngờ tiến công lần lượt giải  phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa: Song Tử Tây (14/4), Sơn Ca (25/4), Nam  Yết (27/4), Sinh Tồn (28/4), Trường Sa (29/4). Đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược,  góp phần giữ vững chủ quyền quốc gia ở quần đảo Trường Sa. 

Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch hiệp đồng quân, binh chủng quy mô lớn  nhất, giành thắng lợi to lớn nhất, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Quân đội  ta cả về tổ chức lực lượng và trình độ chỉ huy tác chiến hiệp đồng quân binh chủng;  là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần quyết định kết thúc cuộc  kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. 

4. Quân đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975 - 2024) 

Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, các đơn  vị Quân đội đứng chân trên các vùng mới được giải phóng đã phối hợp với Ủy ban  quân quản các cấp, khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng cơ sở, xây  dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương; tổ chức cải tạo binh lính  cảnh sát của bộ máy chính quyền cũ, trấn áp các phần tử và tổ chức phản động,…  Đồng thời, các đơn vị đã tích cực tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế, tham  gia xây dựng nhiều công trình trọng điểm trên mọi miền đất nước.  

Sau đại thắng mùa Xuân 1975, Quân đội ta lại phải tiến hành cuộc chiến tranh  chính nghĩa bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân dân Campuchia lật  đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Trước hành động xâm lược của quân Pôn Pốt và đáp lời  kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Quân tình  nguyện Việt Nam cùng với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã thực hiện cuộc  phản công, tiến công mạnh mẽ, đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, giải phóng thủ đô  Phnôm Pênh vào ngày 07/01/1979, tiến tới giải phóng toàn bộ đất nước Campuchia.  Trong 10 năm (1979 - 1989), Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã phát huy  tinh thần quốc tế trong sáng, cùng quân dân Campuchia truy quét tàn quân Pôn Pốt,  củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang, hồi sinh đất nước.  

Cũng đầu năm 1979, quân và dân ta phải chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc  của Tổ quốc. Cuộc chiến đấu diễn ra trong thời gian ngắn (17/02 - 06/3/1979), nhưng  trên thực tế tình hình biên giới phía Bắc căng thẳng kéo dài đến cuối những năm 80  của thế kỷ XX. Trong cuộc chiến đấu này, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu,  bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, lãnh thổ của Tổ quốc.  

Thắng lợi của quân và dân ta trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và  cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc có ý nghĩa lịch sử rất to lớn, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, tạo  môi trường hòa bình để phát triển đất nước.  

Trong những năm 1980 - 1986, Quân đội ta đã đẩy mạnh công tác huấn luyện,  sẵn sàng chiến đấu, giáo dục - đào tạo, xây dựng nền nếp chính quy; tích cực tham  gia xây dựng kinh tế, xã hội. Toàn quân đã tổ chức hàng trăm cuộc diễn tập tác chiến  hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn với nhiều binh khí kỹ thuật hiện đại trên các  địa bàn chiến lược, góp phần rèn luyện, nâng cao khả năng tổ chức chỉ huy của cán  bộ và trình độ sẵn sàng chiến đấu của bộ đội.  

Từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đến nay, Quân đội cùng toàn  dân tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam  xã hội chủ nghĩa. Gần 40 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, Quân đội luôn thực  hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản  xuất, đóng góp xứng đáng vào thành tựu chung của đất nước. Nổi bật là:  

- Quân đội thường xuyên nắm chắc và dự báo đúng tình hình, chủ động tham  mưu với Đảng, Nhà nước đề ra đối sách phù hợp, xử lý linh hoạt, thắng lợi các tình  huống, không để bị động, bất ngờ về chiến lược, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh,  giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm sự ổn định  chính trị, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Tham mưu ban  hành Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, các chiến lược, dự án luật, đề án về quân sự, quốc phòng.  Phát huy tốt vai trò nòng cốt, chủ động phối hợp với các ban, bộ, ngành, địa phương  trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng  toàn dân, “thế trận lòng dân” và khu vực phòng thủ vững chắc. 

- Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị lãnh  đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng huấn luyện chiến đấu với quan điểm chỉ đạo xuyên  suốt: Huấn luyện là nhiệm vụ chính trị trung tâm, thường xuyên trong thời  bình. Trên cơ sở đó, toàn quân đã thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng công  tác huấn luyện, diễn tập; bám sát phương châm “Cơ bản - Thiết thực - Vững chắc”,  coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, theo hướng hiện đại, nâng cao sức cơ  động chiến đấu của bộ đội, đáp ứng với các hình thái chiến tranh mới. Bộ Quốc  phòng đã chỉ đạo và tổ chức thành công nhiều cuộc diễn tập tác chiến hiệp đồng  quân chủng, binh chủng quy mô lớn, khẳng định sức mạnh, khả năng sẵn sàng chiến  đấu và chiến đấu của Quân đội, được Đảng và Nhà nước ghi nhận, đánh giá cao. 

- Toàn quân thường xuyên duy trì nghiêm nền nếp, chế độ sẵn sàng chiến đấu,  nắm chắc, đánh giá, dự báo đúng tình hình, nhất là tình hình trên không, trên biển,  biên giới, nội địa, ngoại biên, không gian mạng, kịp thời xử trí khi có tình huống,  không để bị động, bất ngờ. Chủ động và kiên quyết đấu tranh phòng, chống “diễn  biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại của các thế lực thù địch. Phối hợp với các lực lượng bảo  vệ an toàn tuyệt đối các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước. 

- Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân triển  khai nhiều giải pháp thiết thực xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ  sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội; xây dựng  Đảng bộ Quân đội và các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn quân trong sạch, vững  mạnh tiêu biểu gắn với xây dựng các cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu  mực, tiêu biểu”. Triển khai có hiệu quả chủ trương xây dựng Quân đội tinh, gọn,  mạnh; tổ chức thực hiện tốt công tác hậu cần, kỹ thuật và các mặt công tác khác.  Đặc biệt, công nghiệp quốc phòng được phát triển theo hướng hiện đại, lưỡng dụng;  đã nghiên cứu làm chủ công nghệ chế tạo và sản xuất được một số vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, hiện đại mang thương hiệu Việt Nam. Công tác hội nhập quốc tế, đối  ngoại quốc phòng đạt nhiều kết quả nổi bật trên cả bình diện song phương và đa  phương; tích cực tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, hỗ trợ nhân đạo, tìm kiếm cứu nạn, cứu trợ thảm họa, khắc phục hậu quả chiến tranh, được  bạn bè quốc tế đánh giá cao.  

- Thực hiện chức năng đội quân công tác, Quân đội đã có những đóng góp quan  trọng trong thực hiện công tác dân vận; tích cực tuyên truyền, vận động Nhân dân  thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà  nước, các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động cách mạng, nhiệm vụ 

chính trị của địa phương; tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh,  tăng cường quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; tích cực giúp  Nhân dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt, cán bộ, chiến sĩ  Quân đội đã không quản ngại gian khổ, hy sinh, xung kích trong phòng chống thiên  tai, dịch bệnh, cứu nạn, cứu hộ, để bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhân dân; nhiều  cán bộ, chiến sĩ đã ngã xuống trong thực hiện nhiệm vụ cao cả này. Hình ảnh cán  bộ, chiến sĩ Quân đội luôn có mặt ở những nơi xung yếu, hiểm nguy để giúp đỡ Nhân  dân ứng phó với thiên tai, dịch bệnh đã làm ngời sáng thêm bản chất tốt đẹp “Bộ đội  Cụ Hồ”, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân tin tưởng, đánh giá cao. 

- Thực hiện chức năng đội quân lao động sản xuất, Quân đội đã tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp với chủ trương  phát triển kinh tế, xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh trong giai đoạn mới;  xây dựng và phát huy hiệu quả các khu kinh tế - quốc phòng trong tham gia phát  triển kinh tế, xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh ở các địa bàn chiến lược,  đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo. Các doanh nghiệp quân  đội được tổ chức, sắp xếp phù hợp với yêu cầu đổi mới qua từng thời kỳ, vừa phục  vụ tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, vừa góp phần phát triển kinh tế, xã hội. Các  đơn vị đã tham gia xây dựng nhiều công trình trọng điểm quốc gia, công trình hạ tầng phục vụ dân sinh, đóng góp đáng kể vào thu nhập quốc dân, bảo đảm an sinh xã hội; tham gia thực hiện có hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia gắn với  thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Toàn quân đã chú trọng tăng gia sản xuất,  góp phần cải thiện đời sống của bộ đội. 

5. Truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam 

Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, Quân đội  ta đã xây đắp nên truyền thống rất vẻ vang, được khái quát cô đọng trong lời khen  ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn  sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm  vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh  thắng7. Truyền thống đó được thể hiện: 

- Trung thành vô hạn với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với Đảng, Nhà  nước và Nhân dân. 

- Quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và biết thắng. 

- Gắn bó máu thịt với Nhân dân, quân với dân một ý chí. 

- Đoàn kết nội bộ; cán bộ, chiến sĩ bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, thương  yêu, giúp đỡ nhau, trên dưới đồng lòng, thống nhất ý chí và hành động. 

- Kỷ luật tự giác, nghiêm minh. 

- Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, cần, kiệm xây dựng Quân đội, xây dựng đất  nước, tôn trọng và bảo vệ của công. 

- Lối sống trong sạch, lành mạnh, có văn hóa, trung thực, khiêm tốn, giản dị,  lạc quan. 

- Luôn luôn nêu cao tinh thần ham học hỏi, cầu tiến bộ, ứng xử chuẩn mực,  tinh tế. 

- Đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung, chí nghĩa, chí tình. 

II. LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA NGÀY HỘI QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN  1. Lịch sử Ngày hội Quốc phòng toàn dân 

Quốc phòng toàn dân là nền quốc phòng mang tính chất “vì dân, do dân, của  dân”, phát triển theo phương hướng: toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh,  dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, do Nhân dân làm  chủ, nhằm giữ vững hòa bình, ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo loạn lật đổ của các thế lực đế quốc và phản động, bảo vệ vững  chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”8.  

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 435.

Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán khẳng định, xây dựng nền quốc phòng toàn  dân vững mạnh là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là nòng cốt. Nền quốc phòng  của Việt Nam là nền quốc phòng mang tính chất hòa bình, tự vệ và mang bản chất  của chế độ xã hội chủ nghĩa. Việt Nam xây dựng sức mạnh quân sự, quốc phòng dựa  trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ 

thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, kết hợp sức mạnh dân tộc và  sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức  mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân. Đảng, Nhà nước ta chủ trương  phát triển kinh tế, xã hội gắn với tăng cường khả năng quốc phòng, an ninh, phối  hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại thành một thể thống nhất để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nhất là các cuộc khởi  nghĩa, các cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc do Nhân dân ta  tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh sức mạnh vô địch của khối đại  đoàn kết toàn dân tộc. Bất kỳ giai đoạn nào, phải đương đầu với kẻ thù hung bạo đến  đâu, nếu cổ vũ, động viên, quy tụ được sức mạnh toàn dân thì dân tộc ta đều giành thắng  lợi vĩ đại, bảo đảm sự bền vững của độc lập, tự do, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. 

Xuất phát từ vai trò của công tác tuyên truyền, cổ vũ, động viên toàn dân tham  gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đồng thời thể theo nguyện vọng  của quân và dân cả nước, ngày 17/10/1989, Ban Bí thư Trung ương Ðảng khóa VI  đã ra Chỉ thị số 381-CT/TW quyết định lấy ngày 22/12 - Ngày thành lập Quân đội  nhân dân Việt Nam là Ngày hội Quốc phòng toàn dân. Ngày 22/12/1989, lần đầu  Ngày hội Quốc phòng toàn dân được tổ chức tại tất cả các địa phương trong cả nước.  Từ đó đến nay, ngày 22/12 đã trở thành ngày hội lớn của toàn dân tộc với các hoạt  động hướng vào chủ đề quốc phòng và quân đội. 

2. Ý nghĩa của Ngày hội Quốc phòng toàn dân 

Lấy ngày 22/12 là Ngày hội Quốc phòng toàn dân là sự kế thừa truyền thống  toàn dân đánh giặc giữ nước của dân tộc ta qua các giai đoạn lịch sử; là chủ trương  lớn, quan trọng của Đảng, Nhà nước; tiếp tục khẳng định quan điểm toàn dân tham  gia xây dựng, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, trong đó lực lượng vũ trang  nhân dân làm nòng cốt. Đây thực sự là ngày hội của truyền thống dựng nước và giữ nước, ngày hội tôn vinh và nhân lên hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, một nét độc  đáo của văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. 

8 Bộ Quốc phòng - Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự, Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân  dân, Hà Nội, 2004, tr. 848.

Ngày hội Quốc phòng toàn dân là dịp để tuyên truyền sâu rộng truyền thống đánh  giặc giữ nước của dân tộc và phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, giáo dục lòng yêu  nước, yêu chủ nghĩa xã hội; từ đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn dân trong  tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh gắn với thế trận chiến tranh  nhân dân vững chắc, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, cổ vũ, động  viên toàn dân chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh trên từng địa  phương, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hùng mạnh trong tình hình mới. 

Hằng năm, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã có rất nhiều hoạt động phong  phú, sáng tạo để tổ chức kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và  Ngày hội Quốc phòng toàn dân, như: Mít tinh, hội thảo, hội nghị đoàn kết quân - dân, ngày hội văn hóa quân - dân, tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục với  nội dung, hình thức phong phú, đa dạng; tổ chức gặp mặt, giao lưu, nói chuyện  truyền thống, thăm hỏi động viên các cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong,  các gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh; giao lưu văn hóa, văn nghệ, thi đấu thể dục thể thao, hội thao quân sự trong lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng nhà tình  nghĩa, nhà đại đoàn kết tặng các đối tượng chính sách; tham gia xây dựng, tu sửa,  tôn tạo, nâng cấp nghĩa trang liệt sĩ, đài tưởng niệm, đền thờ liệt sĩ; tổ chức dâng  hương, tri ân các anh hùng, liệt sĩ... 

Các cấp, các ngành, cấp ủy và chính quyền các địa phương đã chú trọng đẩy  mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa  đói, giảm nghèo, gắn với xây dựng và phát triển tiềm lực quốc phòng, an ninh qua  các chương trình, các dự án phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; tuyên truyền,  vận động quần chúng Nhân dân tích cực tham gia xây dựng và củng cố quốc phòng,  xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, xây dựng cơ sở chính trị ở địa phương vững mạnh. Thông qua đó, “thế trận lòng dân” ngày càng  được củng cố vững chắc, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của  các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội để phát triển  đất nước nhanh và bền vững. Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Tiềm lực quốc phòng  và an ninh được tăng cường; thế trận lòng dân được chú trọng; thế trận quốc phòng  toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng  điểm, được củng cố vững chắc”9

III. XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI, CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG, ĐÁP ỨNG  YÊU CẦU SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH  HÌNH MỚI 

Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp,  khó dự báo. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, song đứng trước nhiều  trở ngại, khó khăn, thách thức. Các nước lớn vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh  quyết liệt; tăng cường điều chỉnh chiến lược, lôi kéo, tập hợp lực lượng. Nhiều điểm  nóng, xung đột tiếp tục tồn tại, có nguy cơ lan rộng. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia,  dân tộc. Sự xuất hiện của các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại, nhiều  hình thái chiến tranh mới làm thay đổi môi trường chiến lược. Các thách thức an  ninh phi truyền thống ngày càng gay gắt, tác động tiêu cực đến sự tồn tại, phát triển  bền vững của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. 

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,  hà Nội, 2011, tr. 68.

Ở trong nước, mặc dù đạt được nhiều thành tựu về kinh tế - văn hóa - xã hội, kinh  tế vĩ mô bảo đảm ổn định nhưng chưa thật sự vững chắc; tiềm lực đất nước tiếp tục  được tăng cường, uy tín, vị thế trên trường quốc tế được nâng cao, song cũng còn nhiều  khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ Đảng ta xác định vẫn còn hiện hữu; những biểu hiện  suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong  nội bộ, tình trạng tham nhũng chưa được đẩy lùi; sự xuống cấp của một số giá trị văn  hóa và đạo đức, những mâu thuẫn, bức xúc trong xã hội còn diễn biến phức tạp. Tranh  chấp chủ quyền trên Biển Đông còn tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định. Các thế lực thù  địch, phản động tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội với âm mưu, thủ đoạn ngày càng công khai, trực diện và tinh vi hơn. 

Tình hình đó đặt ra những khó khăn, thách thức mới đối với sự nghiệp xây dựng  Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong những năm tới; đòi hỏi toàn  Đảng, toàn dân, toàn quân phải phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân  tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng  tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống  nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã  hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hoà  bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự,  kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 

Phát huy những bài học kinh nghiệm quý báu trong lịch sử đấu tranh giữ nước  của dân tộc, trong lịch sử xây dựng, chiến đấu và chiến thắng của Quân đội nhân dân  Việt Nam, chúng ta tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp  về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân  đội nhân dân và sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Quán triệt sâu sắc  và thực hiện có hiệu quả đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân; khơi  dậy và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, ý chí tự lực, tự cường, truyền thống  văn hóa tốt đẹp, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.  

Tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân,  thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng  dân” vững chắc. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn xã hội đối với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.  Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc  phòng, an ninh cho các đối tượng; chú trọng tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận  thức về đối tác, đối tượng của cách mạng Việt Nam, đường lối, quan điểm của Đảng,  yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, bồi dưỡng ý thức trách nhiệm,  tinh thần cảnh giác cách mạng trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. 

Chú trọng xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng, nâng cao tính bền  vững và khả năng huy động đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng trong các tình  huống. Xây dựng khu vực phòng thủ các cấp vững chắc, tạo thế bố trí phòng thủ liên  hoàn trên từng địa bàn và phạm vi cả nước. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế,  văn hoá, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với  kinh tế, văn hoá, xã hội và đối ngoại theo đúng quan điểm chỉ đạo: “Phát triển kinh  tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng  tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”.  

Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện  đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm  2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu  năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại;  vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Điều chỉnh tổ chức  Quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, gắn với bố trí lại lực lượng và nâng cao chất  lượng thu hút, đào tạo nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao trong Quân đội. Giữ vững và phát huy truyền thống vẻ vang của Quân đội, phẩm chất cao đẹp “Bộ đội  Cụ Hồ” và nghệ thuật quân sự Việt Nam; thực hiện tốt chức năng “đội quân chiến  đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”; sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, ứng phó các mối đe  dọa an ninh phi truyền thống; nâng cao năng lực phòng, chống chiến tranh không  gian mạng, chiến tranh thông tin. Đồng thời, quan tâm, chăm lo thực hiện tốt chính  sách đối với Quân đội và chính sách hậu phương quân đội. 

Tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng  theo tinh thần Kết luận số 53 ngày 28 tháng 4 năm 2023 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 2662-NQ/QUTW ngày 26 tháng 02 năm 2024 của Quân ủy Trung ương về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo.  Quán triệt và thực hiện tốt phương châm “tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt,  hiệu quả” trong hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, kiên định chính sách  quốc phòng “Bốn không” của Việt Nam trong quan hệ quốc tế (không tham gia liên  minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia, không cho nước  ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác,  không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế). Từ đó,  tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, tăng cường lòng tin chiến lược, giữ vững môi trường hòa bình, hợp tác, cùng phát triển, góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. 

Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 35 năm Ngày  hội Quốc phòng toàn dân là dịp để chúng ta ôn lại lịch sử hào hùng của dân tộc, bản  chất, truyền thống tốt đẹp, những chiến công oanh liệt của Quân đội và nhân dân ta;  qua đó, khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách  mạng, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý chí tự lực, tự cường, vượt  qua mọi khó khăn, thử thách; ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh,  xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc,  xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại trong những  năm tới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. 

BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG - TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ QĐND VIỆT NAM